Đức Phật Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là ai? 03 sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Đức Phật Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là ai? 03 sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Chúng ta thường nghe về Văn Thù Bồ Tát trong các kinh điển Phật Giáo và thường nghe câu niệm Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Vậy Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là ai? Văn Thù Bồ Tát cưỡi gì? Văn Thù Bồ Tát là nam hay nữ..? là thắc mắc của rất nhiều người. Hãy cũng Điêu Khắc Trần Gia tìm hiểu rõ hơn qua bài viết rất hữu ích dưới đây nhé.

I,Phật Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là ai?

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là một trong sáu vị đại Bồ Tát quan trọng của Phật giáo Đại Thừa, Ngài thường cùng với Phật Phổ Hiền Bồ Tát đứng hầu hai bên Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Phật Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tiêu biểu cho Trí Tuệ với biểu tượng đặc thù là Ngài cầm thanh gươm bốc lửa cao ngang đỉnh đầu.

Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cũng được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tường.

Diệu Đức được hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Trách Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi.

Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca.

Ngài có lúc thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, còn có lúc đóng vai người điều khiển chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.

Ngài thấu hiểu Phật tính bao gồm cả ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ tát Ngài là thượng thủ. Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.

1, Phật Văn Thù Bồ Tát là nam hay nữ?

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã trải qua hằng hà sa số kiếp để thành Phật, có kiếp Ngài là nữ nhân, có kiếp lại là nam nhân.

Theo giáo lý nhà Phật, các bậc tu tập đã Giác Ngộ thì không phân biệt là nam hay nữ.

2, Ngày vía Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát :

Hàng năm, vào ngày 4/4 ( Âm lịch) thường diễn ra lễ vía Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

3, Thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát – Bồ Tát Văn Thù cưỡi sư tử.

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Chúng ta thường thấy ngài Văn Thù cưỡi sư tử xanh –  hình ảnh biểu thị cho uy lực của trí tuệ vô song không gì sánh được.

Sư tử xanh được xem là vua của muôn thú ở rừng xanh, có sức mạnh và uy lực hơn tất cả các loài thú khác. Cho nên, lấy con sư tử để biểu trưng cho năng lực vô cùng của trí tuệ. Đó cũng là trí của Phật. Nhờ trí này Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã chuyển hóa những vô minh, phiền não, những ý niệm chấp ngã, pháp trở về vô lậu và chứng chân thật tính.

Nói thêm về hình ảnh Văn Thù Bồ Tát trong Tây Du Ký:

Thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát có là con sư tử lông xanh có tên Thanh Sư ( con sư tử này vốn là một vị tiên của Triệt giáo, do làm trái ý trời đã bị đánh hiện nguyên hình là con sư tử lông xanh và bị Bồ Tát Văn Thù thu phục làm thú cưỡi).

Tròn Tây Du Ký, Thanh Sư đã kết nghĩa cùng Kim Sí Điểu và Bạch Tượng, hợp nhau tạo ra kiếp nạn của bốn thầy trò Đường Tăng tại Sư Đà Thành.

Ba yêu tinh này hạ phàm kết hợp thành ba đại vương ở Sư Đà Thành, muốn bắt Đường Tăng ăn thịt để được trường sinh bất lão nhưng đã bị các vị Bồ Tát đến thu phục kịp thời.

4, Nơi ở của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Trong kinh sách Phật giáo Á Châu, thì Ngũ Đài Sơn bên Trung Quốc được xem như là nơi trụ tích của Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.

Ngũ Đài Sơn thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây và có năm ngọn núi quần lại với nhau là Đông đài, Tây đài, Nam đài, Bắc đài và Trung ương đài.

MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG NHỮNG MẪU TƯỢNG VĂN THÙ BỒ TÁT RẤT ĐẸP:

II, Những Sự Tích Văn Thù Bồ Tát không phải ai cũng biết:

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Trong Kinh Hoa Nghiêm ghi lại rằng:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trụ lại ở núi Thanh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe. Mà núi Thanh Lương sau nầy được ám chỉ là núi Ngũ đài.

Vào đời nhà Đường (736 sau T.L) có vị Thiền sư Đạo Nhất, một vị cao tăng, đã thực hiện một chuyến hành hương trên Ngũ đài sơn. Sư gặp một một lão tăng voi trắng ở phía đối diện. Lão tăng thông báo với nhà sư rằng ngày mai sẽ gặp được Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, nói xong thì lão tăng biến mất. Nhà Sư vui mừng khôn siết và suốt đêm nghĩ lại chùa Thanh Lương, trung tâm Ngũ Đài Sơn.

Sáng tinh mơ hôm sau, Sư đã thức dậy, một mình nhắm hướng Tây lên núi. Sư lại gặp vị cưỡi con voi trắng hôm qua. Vị tăng già khuyến khích sư tiếp tục đi lên núi.

Khi sư đi về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu thì Sư thấy một dinh thự hùng vĩ trang nghiêm như một tu viện được dựng hoàn toàn bằng vàng. Sau đó Sư gặp lại vị lão tăng và không còn nghi ngờ gì nữa, Sư biết chắc vị lão tăng kia chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hóa hiện. Sư mừng đến độ choáng váng phải một lúc sau Sư mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội nầy Sư đã tham vấn về những khúc mắc trong Phật pháp và Bồ tát cũng ân cần hỏi han về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Từ giã Bồ tát bước đi chừng trăm bước, Sư ngoái đầu nhìn lại, tất cả đều biến mất.

Sư Đạo Nhất đem tất cả những điều chứng kiến được tâu trình lên vua Đường Huyền Tôn. Nhà vua rất thu hút bởi chuyện nầy nên sai thiết lập ngôi Kim Cát Tự. Đây là ngôi chùa vĩ đại được kiến trúc theo mô hình mà Sư nhớ lại được hoàn tất vào cuối thế kỷ thứ 8.

Một nhà sư khác người Nhật tên là Viên Nhân (Ennin) cũng đã hành hương đến Ngũ Đài Sơn vào năm 840 sau T. L. Ông đã lưu lại đây hơn hai tháng và đã ghi lại những điều chứng kiến được như sau:”Vào khoảng đầu hôm, chúng tôi, một nhóm tăng khoảng mười người đột nhiên trông thấy trên bầu trời hướng Đông của thung lũng xuất hiện một cây đèn thần. Ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình nhưng sau đó lớn dần lên bằng cả cái nhà. Chúng tôi quả thật rúng động trước cảnh tượng nầy, vội vã quỳ xuống đánh lễ và niệm lớn danh hiệu Bồ tát Văn Thù. Rồi thì một cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn.

Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng 100 bộ, tỏa ánh sang rất rực rỡ cho đến khoảng nữa đêm thì tàn lụi dần và biến mất”. Trong cuốn hồi ký nầy, sư Viên Nhân cũng mô tả lại những kiến trúc, đền đài, những nơi thờ phượng ở trên Ngũ Đài Sơn, kể cả bức tượng Bồ tát Văn Thù rất nổi tiếng tại chùa Hoa Nghiêm.

Đây là bức tượng Bồ tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trông thật siêu nhiên, vĩ đại và sống động giống như là thật vậy. Khi nhìn, chúng ta có cảm tưởng như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Sư Viên Nhân viết thêm rằng:” Bức tượng nầy phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành bởi vì tất cả những lần trước, lần nào cũng bị bể cả.

Cuối cùng nhà điêu khắc thành tâm khấn nguyện cùng Bồ tát Văn Thù xin Ngài hiện ra cho ông ta thấy hình ảnh trung thực nhất mà Bồ tát muốn miêu tả về mình.

Sau khi cầu nguyện, nhà điêu khắc mở mắt ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Văn Thù Bồ Tát cỡi trên mình con sư tử màu vàng xuất hiện trước mắt.

Một khoảnh khắc sau đó, Bồ tát bay lên đám mây ngũ sắc và mất hút dần vào khoảng không.

Nhà điêu khắc vô cùng vui mừng và cảm kích khi được trông thấy hình ảnh thực sự của Bồ tát, nhưng đồng thời ông cũng không cầm được nước mắt vì hối hận khi đã diễn tả sai lầm về Bồ tát từ trước đến nay”. Con sư tử biểu thị công năng của trí tuệ. Bồ tát do trí tuệ viên mãn để thuyết pháp dẹp tan tất cả mọi tà thuyết.

MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG NHỮNG MẪU TƯỢNG VĂN THÙ BỒ TÁT RẤT ĐẸP:

III, Sự tích Văn Thù Bồ Tát và vai trò tuyên dương Diệu Pháp:

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Vai trò tuyên dương Diệu Pháp của Bồ tát Văn thù, chúng ta có thể tìm thấy trong kinh: “Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh Giới Bất Tư Nghị của Phật”. Đây là một tuyên ngôn của lý tưởng Bồ tát đạo được công bố bởi một vị đại Bồ tát đại biểu cho trí tuệ. Mục tiêu, lý tưởng của Bồ tát đạo không phải chỉ là để vượt qua vòng sanh tử, đạt đến cảnh giới Niết bàn mà là hoàn thành Phật đạo để cứu độ chúng sinh.

Đặc biệt vai trò tuyên dương diệu pháp của Ngài đã được phô trương quá xuất sắc trong kinh ”Duy Ma Cật”.

Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia nhưng tu hành chứng đắc, mật hạnh viên thông mà ngay cả những bậc đại đệ tử của Phật cũng không có vị nào sánh bằng. Vì muốn độ người nên Ngài thị hiện ở thành Tỳ Da Ly, dùng vô lượng của cải để nhiếp độ dân nghèo, giữ giới hạnh trong sạch để nhiếp độ kẻ phá giới, dùng hạnh nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ sân hận, dùng đại tinh tấn để nhiếp độ kẻ biếng nhác, nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ

Dù hiện thân bạch y mà giữ giới hạnh trong sạch của Sa Môn, dù ở tại gia mà không đắm nhiễm cõi đời, thị hiện có vợ con quyến thuộc mà thường tu thanh tịnh hạnh, dù mặc đồ quý báu mà dùng tướng tốt để trang nghiêm, dù ăn uống theo người đời mà lấy Thiền duyệt làm mùi vị, hoặc đến chỗ cờ bạc, xướng hát vẫn tùy cơ độ người. Tất cả người gặp đều cung kính cúng dường.

Một hôm vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã mượn cớ bị bệnh để tạo dịp giảng giải giáo lý cho chúng sanh. Đức Phật đã biết rõ căn “bệnh” của ông nên đã lần lượt yêu cầu các vị đại đệ tử thay mặt mình đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật.

Thế nhưng tất cả những đại đệ tử của Phật trong quá khứ đã từng bị trưởng giả Duy Ma cật chất vấn về tâm pháp và sở học mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến thức Phật pháp uyên thâm và biện tài vô ngại của ông nên tất cả đều sợ hãi từ chối.

Cuối cùng chỉ có Văn Thù Sư Lợi thay mặt Đức Phật đến thăm bịnh của Trưởng giả Duy Ma Cật mà thôi. Cùng đi với Bồ tát Văn Thù còn có 8000 Bồ tát, 500 Thanh văn và trăm nghìn Thiên nhơn để xem một cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất nầy.

Duy Ma Cật hỏi: Thế nào là hạt giống Như Lai? Văn Thù Sư Lợi trả lời:

– Có thân là hạt giống Như Lai, vô minh, ái dục là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bát thiện đạo là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật.

Duy Ma Cật hỏi: Tại sao?

Văn Thù đáp:

– Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nữa. Ví như chỗ gò cao thì không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp hoa sen mới sanh được. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh sanh khởi Phật pháp thôi. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá.

Cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể nào được ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.

Chủ điểm nền tảng của kinh Duy Ma Cật là triển khai nhận thức về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức hệ tư tưởng tánh Không của Bát nhã. Nguyên lý bất nhị hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt mà khám phá ra thực tại tối hậu là nhận thấy bản thể chân thật (tuyệt đối) ngay trong các thực tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực tại chân thật nầy, Bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị, tức là cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa Niết bàn và sanh tử.

Bây giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ tát rằng: Này nhơn giả Bồ tát! Làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra.

Tất cả 32 vị Bồ tát lần lượt trả lời về câu hỏi nầy, nhưng cư sĩ Duy Ma Cật đều không hài lòng về các câu trả lời đó. Cuối cùng tới ngài Văn Thù Sư Lợi đáp:

– Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn vô nhị.

Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:

– Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói:”Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ tát?”

Duy Ma Cật im lặng.

Văn Thù tán thán rằng:

– Lành thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị.

Bất nhị là cảnh giới của “đại trí tuệ bình đẳng”, có nghĩa là 2 cũng không và 3 cũng không. Nếu nói tới pháp môn bất nhị nầy thì phải lìa xa hẳn ngôn thuyết ở cảnh giới vong ngôn, tuyệt tự. Không thể đem hết thảy ngôn thuyết của tất cả các pháp mà hiểu rõ được, cũng không thể chỉ bảo được và cũng không thể biết được. Không thể hỏi và trả lời được, thì đó mới là “pháp môn bất nhị”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đồng thời cũng còn quan hệ mật thiết với ngọn núi Ghandhamana, “ngọn núi tỏa thơm mùi hương báu”. Trong bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nhập Diệt”, Ngài được mô tả là đã từng đến viếng dãy Hy Mã Lạp Sơn để chuyển hóa 500 vị đại tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo. Và sau đó, kinh nầy cũng mô tả cảnh Ngài nhập diệt, khi dùng lửa tam muội tự thiêu đốt xác thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi Hương Sơn, nơi mà vô số lượng các Thiên, Long, quỷ, thần sẽ tu tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Gandhamana.

Chúng ta thờ phượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn hụp trong vòng sinh tử luân hồi, chịu chập chồng muôn nỗi khổ đau. Chúng ta hãy thức tỉnh để quay về với trí tuệ sẵn có của mình và dùng thanh gươm trí tuệ chặt đứt lưới tham ái để vượt ra khỏi bể khổ thâm sâu. Vâng, chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng cứu chúng ta ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Thêm nữa, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi tha, chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ nầy để cứu thoát mọi người trước kẻ thù phiền não, của con rắn độc tham sân si. Có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đánh lễ đức Văn Thù Sư Lợi tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử.

Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà được. Cho nên nói phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy.

MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG NHỮNG MẪU TƯỢNG VĂN THÙ BỒ TÁT RẤT ĐẸP:

VI, Bần Nữ Khất Trai: (Sự tích tháp thờ tóc của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát)

Sự tích Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là ai

Ngày xưa, có một người đàn bà góa chồng, không biết quê quán ở đâu, rất nghèo nàn đói lạnh, nhưng về phụ hạnh vẹn toàn, khiến hàng phụ nữ và đấng nam nhân, ai ai cũng đều kính phục.

Nàng nghe thiên hạ đồn rằng: Có một ngôi chùa kia do một vị sư trụ trì, hợp lực cùng mấy nhà từ thiện kiến lập trai đàn. Mục đích là cầu an cho bá tánh và bố thí gạo vải cho dân nghèo. Nghe tin ấy, nàng rất vui mừng, bèn bồng hai đứa con và dắt con chó đến Chùa để xin bố thí.

Đến nơi, nàng thấy trai đàn trang nghiêm thanh tịnh, đèn thắp sáng choang, khói trầm nghi ngút, những nhà giàu sang thì đang đem tiền của cho người nghèo khổ, thuốc thang tặng cho những người đau ốm bệnh hoạn.

Nàng đứng xớ rớ trong đám người đi xem trai đàn, mà trong lòng thì tự nghĩ: Người ta giàu có, tiền của dư giả, đem ra làm chay làm phước để cầu phước báu về sau. Còn mình thì phước mỏng nghiệp dày, thiếu thốn đói khát, há mình không tìm được một cách gì để bố thí làm lành như những người giàu sang kia được?

Nghĩ như vậy rồi, nàng liền tự hớt đầu tóc của mình, đem vào dâng cho vị trụ trì để làm vật bố thí.

Khi ấy chưa đến giờ thọ trai, Tăng chúng và thiện nam tín nữ còn đang hành lễ.

– Bạch thầy, phận tôi cơ hàn, chồng thì đã chết, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ đây, và một đứa con ở trong bụng. Thế mà người thân chẳng có, gia sản cũng không, nên tấm thân phải vất vả, nay đầu làng mai cuối chợ, ăn nhờ hột cơm dư của quần chúng. Nay tôi đến đây, xin thầy từ bi bố thí cho mấy mẹ con tôi một ít cơm chay để đỡ lòng, mẹ con tôi còn đi xin nơi khác.

Vị trụ trì nghe vậy, liền sai ông đạo nhỏ chạy xuống nhà bếp đơm cho nàng ba bát cơm thật đầy. Vị trụ trì tưởng cho như vậy là đủ.

Ai dè, người đàn bà nhìn ba bát cơm một hồi, rồi thưa:

– Bạch thầy, thầy từ bi cho thêm một bát cơm nữa, đặng cho phần con chó.

Vị trụ trì nghe nàng nói như vậy, thì trong lòng đã hơi giận rồi, nhưng cũng ráng dằn lòng xuống và bảo người đi xúc cho con chó một bát cơm nữa cho êm chuyện.

Nào ngờ, người đàn bà tiếp lấy bát cơm, lại thưa tiếp rằng:

– Bạch thầy! Đứa nhỏ mà tôi đang mang trong bụng đây. Thiết nghĩ thầy cũng nên hoan hỷ cho nó một bát cơm nữa mới đúng!

Vị trủ trì nghe nói như vậy nổi xung, liền lớn tiếng:

– Kiếp trước nàng ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí làm nhân, nên nay mới chiêu cảm cái thân bần nữ như thế, lại góa bụa không chồng, sống ăn nhờ của dân chúng, chết chẳng ích gì cho quê hương; vậy mà không biết thân, còn muốn ăn tham của Tăng chúng nữa. Vả lại xưa nay, có ai thấy những đứa nhỏ còn ở trong bụng mẹ mà người ta cho nó ăn cơm bao giờ, mà nàng đòi xin một cách trái đời như vậy! Thôi hãy đi chỗ khác, chớ đừng nói chuyện dây dưa mà làm trễ giờ của bần Tăng lễ Phật.

Câu nói của vị trú trì vừa dứt, thì năm sắc mây màu kết lại, rực rỡ trên hư không; rồi người bần nữ ấy hiện ra chân tướng của đức Văn Thù, cưỡi con sư tử rất hùng tráng oai nghiêm, hai bên thì có Thiện Tài và Ưu Điền Vương đứng hầu,làm cho ai nấy trông thấy đều hoảng kinh và cúi đầu đảnh lễ.

Đức Văn Thù liền đọc bài kệ:

Bầu đắng, đắng tận gốc

Dưa ngọt, ngọt cùng dây

Ta đã siêu tam giới

Còn bị chư Tăng rầy!

Khi đọc bốn câu kệ rồi, thì đức Văn Thù liền ẩn thân năm sắc mây lành lần lần tan biến.

Thấy vậy, vị trú trì thất thần biến sắc, mở hai con mắt nhìn trân trân, một chặp lâu mới định trí lại, và tự trách mình rằng: Tiếc bấy lâu nay tu hành, ăn cơm Phật, nhận mình đã vào cửa vô vi, mà lòng từ bi còn kém, đức nhẫn nhục chưa tròn, đến nỗi không thấy chơn Thánh như vậy, thì ta còn để đôi mắt làm chi?

Vị trụ trì tự trách rồi, liền với tay lên muốn lấy con dao nhỏ để khoét đôi mắt,mọi người lật đật xúm lại giựt con dao và khuyên giải một hồi, thì ngài mới bớt lòng buồn rầu ân hận. Sau đó vị trụ trì đắp y hậu đến trước Phật đài, chí thành đảnh lễ Tam Bảo để thành tâm sám hối.

Từ đó về sau, đối với mọi người, vị trụ trì giữ được tâm từ bi bình đẳng để tiếp đãi, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn nữa…

Còn đầu tóc của đức Văn Thù thị hiện bố thí đó. Thì nhà chùa xây dựng một ngôi tháp ngay chỗ Bồ Tát thị hiện xin cơm để tôn thờ, và hằng ngày chiêm ngưỡng cúng dường…

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT_(())_

NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT_(())_

MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG NHỮNG MẪU TƯỢNG VĂN THÙ BỒ TÁT RẤT ĐẸP:

Trả lời